Rạng sáng 16-11, chung quanh gò đất nơi đóng quân của địch, rất nhiều thi thể của nghĩa quân còn nằm tại đó, trong tay vẫn nắm chắc giáo, gươm, gậy gộc. Người chỉ huy - Đốc binh Phan Ngọc Tòng đã hy sinh trong đám nghĩa quân này.
Theo lời kể của Paulin Vial (Giám đốc Nội vụ Nam Kỳ), người chỉ huy các cuộc đàn áp nghĩa quân chống Pháp ở Nam Kỳ, người có mặt trong cuộc hành quân tại huyện Bảo An4 thì: “… Lối nửa đêm (15-11-1867), một đám mưa nhỏ khởi sự rơi. Đến 2 giờ khuya, tiếng la to “cầm súng lên”, phóng ra do miệng của nhiều binh lính gác hô một lượt, kế đó là lối 12 tiếng súng bắn, đồng thời người ta nghe bốn hướng tiếng trống đổ mau và tiếng la của nhiều người hiệp lại. Người ta bị một khối khổng lồ quân phiến loại bao vây và công kích tất cả các mặt. Súng bắn ngay đám đông, bọn công hãm rút lui khỏi chiến trường chừng vài khoảng trong bụi lùm, rồi chúng hiệp nhau, trở lại vây hãm nữa… Đến rạng sáng, một hàng thi thể đầy máu me nằm dài…, vài người tới gần đầu lưỡi lê của ta thì ngã gục, tay còn cầm giáo hoặc gậy gộc. Người ta không thể nào không công nhận lòng can đảm của những người đáng thương kia đang liều chết xáp lại gần chống quân binh ta đã dày dạn trên chiến trường và có súng ống đáng ghê sợ…”.
Trận đánh đêm 15 rạng 16-11-1867, khoảng 200 nghĩa quân ta vừa hy sinh, vừa bị thương tại trận. Nơi nghĩa quân anh dũng hy sinh, về sau có tên gọi thành danh là “Gò Trụi” (ý nói phần lớn nghĩa quân đã bị tiêu hao, không còn sống mấy người).
Cảm kích trước sự hy sinh oanh liệt này, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 10 bài thơ liên hoàn, trong đó có những câu rất hào hùng và xúc động:
- “Thương ôi người ngọc ở Bình Đông,
Lớn nhỏ trong làng thảy mến trông …”
- “… Một trận trải gan trời đất thấy,
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng”
- “… Tinh thần hai chữ phau sương tuyết
Khích phách ngàn thu rỡ núi non …”
Năm 1999, trên bia thờ tại Khu lưu niệm Đốc binh Phan Ngọc Tòng, nhà nghiên cứu văn hóa Huy Khanh - Nguyễn Văn Châu (nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Bến Tre) viết:
“Trận giặc hè Đinh Mão năm xưa, bao thế hệ đều nhớ về Gò Trụi,
Nay đất nước quân thù sạch bóng, đất Ba Tri còn mãi tiếng anh hùng.
Suối vàng thỏa nguyện Phan Công,
Muôn thuở lưu danh hậu thế.”
Như vậy, căn cứ vào tư liệu của ta và của Pháp, ngày tháng năm mất của Đốc binh Phan Ngọc Tòng đã rõ. Đó là khoảng giờ Sửu5, ngày 21 tháng 10 năm Đinh Mão, nhằm 16-11 năm 1867. Tức Đốc binh Phan Ngọc Tòng hy sinh sau ngày mất của cụ Phan Thanh Giản 3 tháng 16 ngày (tính theo âm lịch, cụ Phan Thanh Giản mất vào nửa đêm mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão).
Đối chiếu với Địa chỉ Bến Tre6, ngày hy sinh của Phan Ngọc Tòng được ghi là “đêm 6 rạng 7 tháng Giêng, Mậu Thìn, tức ngày 30 tháng 11 năm 1868”. Sự nhầm lẫn đáng tiếc này khiến cho việc khắc nội dung trên bia mộ của ông cũng bị sai lệch và đã được chỉnh sửa lại, sau khi phát hiện sai.
Theo nhà nghiên cứu Trúc Giang, từ kỳ cúng “Chiêu hồn” diễn ra trong đêm mùng 6 rạng mùng 7 tháng Giêng năm Mậu Thìn (nhằm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1868) thì có lệ “cứ đến ngày khai hạ, tức mùng 7 tháng Giêng, dân làng có lễ chiêu hồn đơn bạc giữa cánh đồng từ An Điền đến An Lái, trên khoảng gò phía mặt”7.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phương Thảo cũng đưa ra chi tiết: “Mỗi năm cứ vào ngày 7 tháng Giêng, từ tờ mờ sáng đến chiều tối, cánh đồng này tấp nập người lui tới, thơm nức mùi hương trầm … Dân làng làm lễ chiêu hồn rất đơn bạc cho Phan Công và nghĩa binh ngã xuống trong trận giặc “hè” năm Đinh Mão. Làm riết, lễ chiêu hồn đã thành lệ của dân làng An Lái mà không làng nào trong tổng Bảo An có”8.
Theo phong tục của người Việt, từ xa xưa, ngày mùng 7 tháng Giêng được xem là ngày “Hạ nêu” hay “Khai hạ”, ngày cúng tạ năm mới, ngày cúng vong linh con người, kết thúc Tết, tiễn linh hồn về cõi âm …
Đốc binh Phan Ngọc Tòng và những nghĩa quân không tiếc máu xương, vì dân, vì nước, hy sinh một cách oanh liệt, nên người dân địa phương chọn ngày “Khai hạ” để cúng “Chiêu hồn” cho các ông là phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đây là dịp người sống hướng về người đã khuất để bày tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn và cầu mong cho linh hồn họ được siêu thoát.
Thiết nghĩ, ngày lễ “Chiêu hồn” mà nhân dân ta thường gọi là giỗ hội đã trở thành lễ hội, là một tập tục tốt, ta nên tiếp tục duy trì để thỏa nguyện tâm linh người đang sống cũng như người đã khuất. Những nghĩa sĩ, liệt sĩ nào rõ tên họ, có thân nhân cũng nên tổ chức kỵ cơm đúng với ngày hy sinh. Theo đó, ngày 21 tháng 10 âm lịch năm Canh Tý (nhằm ngày 5 tháng 12 năm 2020), cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân xã An Hiệp (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) lần đầu tiên tổ chức kỵ cơm cho cụ Phan Ngọc Tòng và những nghĩa sĩ hy sinh cách đây 153 năm, theo nghi thức giỗ truyền thống của dân tộc.
Đó là cách tốt nhất để bày tỏ lòng biết ơn Phan Công và các anh hùng, nghĩa sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự bình an của nhân dân, vì sự trường tồn của quê hương, đất nước.
Trên cơ sở thống nhất giữa Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Di sản Văn hóa Bến Tre và UBND huyện Ba Tri, bài viết này nhằm đưa ra những cơ sở để xác định ngày giỗ chính thức và ngày “Cúng lệ” - lễ “Chiêu hồn” cho Phan Công và nghĩa sĩ được tổ chức hàng năm vào mùng 7 tháng Giêng âm lịch.